Chương 4: Trên miếu Quan Âm

Điện thoại di động không kết nối được vì trên núi không có sóng.

Núi Viêm Đô rất khổng lồ, tập hợp những ngọn núi nguy nga và địa hình cao chót vót. Núi Viêm Đô không chỉ nổi tiếng với núi non hùng vĩ mà còn có những khe núi, thung lũng, có hàng nghìn hẻm núi như những bức bình phong đủ màu được treo cao và có nước trong vắt chảy xuống, người đến tham quan cảm thấy như ở trong một phòng tranh vậy.

Tất cả đều được đục đẽo đầy ma quái, nó được tạo bởi tay nghề thủ công của thiên nhiên tạo ra sự kết hợp giữa ảo diệu và nguy hiểm, mỗi hình thù đều có một dạng khác nhưng ôm nhau theo một cách thú vị. Du khách leo lên các ngọn núi Viêm Đô và khám phá các thung lũng của Viêm Đô, những cảnh quan thiên nhiên biến ảo, tất cả chúng mang đến cho con người cảm giác thần bí.

Đi vào trong khu rừng nguyên sinh, có thể thấy những cổ thụ trong rừng cao chót vót, rễ cây đan xen, dây leo quanh co, rêu bám dày đặc trên mặt đất. Cùng với tiếng vọng của muông thú, tiếng hót của chim muông làm chúng càng thêm sâu thẳm cổ kính, vào mùa hè mà đến đây ngắm cảnh, nằm dài dưới cánh đồng cỏ mềm mại, nhìn lên trời xanh mây trắng, nghe tiếng rừng thì thật là thú vị.

Núi Viêm Đô thực sự có rất nhiều bí ẩn mà khoa học chưa thể giải đáp, chẳng hạn như bí ẩn kỳ lạ về hồ Viêm Đô, bí ẩn về động vật bạch tạng, bí ẩn về thủy triều trên núi cao và hang động băng vào giữa mùa hè, bí ẩn về con sói đầu lừa, v.v. . càng làm tăng thêm màu sắc huyền diệu của nó, các nhà truyền giáo từ Vương quốc Anh và Hoa Kỳ lần đầu tiên quan tâm đến giá trị khoa học của các nguồn tài nguyên của đỉnh Viêm Đô và hồ Viêm Đô, các tiêu bản thực vật mà họ thu thập được đã gây chấn động trong giới khoa học.

Cây cỏ, hoa lá ở núi Viêm Đô không chỉ đa dạng về chủng loại mà còn phân bố rộng rãi, so với mực nước biển thì hồ Viêm Đô ở độ cao 398 mét còn đỉnh Viêm Đô ở độ cao 3105,4 mét, một năm bốn mùa, hoa nở rực rỡ, trăm dặm vẫn còn vương mùi hương, mùa xuân đón mưa phùn có hoa đào nở, mùa hạ có hoa đỗ quyên đỏ rực khắp núi rừng, mùa thu có hoa cúc dại đón tuyết rơi, mùa đông lại có mùa hoa mận đông sương, đặc biệt khoảng thời gian giao thời giữa mùa xuân và mùa hạ, có muôn ngàn muôn loài hoa khắp núi rừng, trải dài rực rỡ vô biên, đến mùa hè màu sắc của nó càng được nâng thêm một tông rực cháy mới, muôn màu muôn vẻ, ánh lên bầu trời xanh mây trắng, suối thác tuôn chảy, uốn lượn, vẻ đẹp không thể lột tả, thật sự là cảnh tuyệt đẹp. Núi Viêm Đô nổi tiếng trên thế giới là một vườn thuốc lớn, sở hữu hơn hai nghìn loại thuốc Bắc.

Trong số đó, có các vị thuốc quý hiếm chiếm tỷ lệ lớn như "Giảo cổ lam" được mệnh danh là “nhân sâm trong cỏ”, cây kim tiền thảo có tác dụng thần kỳ là trẻ hóa và kéo dài tuổi thọ, quả kiwi được mệnh danh là vua của các loại thuốc bổ, xạ hương được sử dụng rộng rãi và có tác dụng chữa bệnh mà chúng ta cũng thấy rõ. Còn có Đỗ Trọng, Hậu Phác, Bối Mẫu, Thiên Ma, Đương Quy, Điền Thất, Hoàng Liên những thứ tương tự đều có ở khắp các ngọn núi. Theo nghiên cứu về núi Viêm Đô, ở đây đã có hơn 60 loại thuốc đã được tìm thấy có tác dụng chống ung thư, và có hơn 100 loại thuốc được liệt kê trong danh sách là các loại thuốc chăm sóc sức khỏe tốt nhất. Núi Viêm Đô có tài nguyên thuốc đông y phong phú được mệnh danh là địa điểm du lịch độc đáo nhất.

Nơi này bao bọc bởi núi xanh, cây rừng quanh núi trùng trùng điệp điệp và xanh mướt, cổ thụ che trời, lũy trúc xanh đung đưa, suối chảy róc rách, hẻm núi độc, hang động lạ, thung lũng sâu thẳm, hồ lạ, hồ cổ, các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh, có cổ có thần bí, nơi ngọa hổ tàng long, phong thủy bảo địa, người giỏi đất thiêng.

Hoặc những ngọn đồi xanh cao chót vót, hùng vĩ và cao lớn, duyên dáng mê người, hay những thác nước bay lên trời, núi non trập trùng, trùng điệp, muôn màu muôn vẻ. Rừng cây xanh um, một năm bốn mùa đón và đưa gió tuyết, mưa sương, sức sống bừng bừng. Rừng cây trên đỉnh Viêm Đô cũng xanh ngắt, gió núi thổi qua, khi thì gào thét rung động, có lúc nhẹ như nước chảy róc rách, chợt như sóng biển gầm thét dữ dội, hàm súc vô cùng thú vị.

Núi xanh vào thu, lá đỏ càng thêm quyến rũ người. Đỉnh Viêm Đô có dốc dựng đứng hiểm trở, có nhiều đỉnh núi kỳ lạ ở nhiều chỗ. Leo lên đỉnh núi phóng tầm mắt ra nhìn bốn phía xung quanh, thấy dãy núi xanh biếc, cánh rừng bao la bạt ngàn nhấp nhô, sương tuyết mờ ảo như chốn bồng lai tiên cảnh, cảnh sắc thiên nhiên có sức hấp dẫn không thể tả.

Lúc này, có một chàng trai trẻ tuổi đeo ba lô đang đi trên con đường xuống núi, mắt như sao vừa giống cái đầm vào mùa thu, khuôn mặt như trăng rằm và đôi môi như được tô vẽ, không ngoa khi nói rằng cậu ta là tập hợp những ưu điểm nổi trội kết hợp của cha Bùi Sở Khanh và mẹ Võ Ngọc Hằng, dáng người cao ráo, thẳng tắp, cơ bắp bình thường nhưng không hề nhão nhoẹt mà ẩn chứa sức mạnh bùng nổ.

Cậu ta là Võ Tùng Quân, là người mà gia đình rất mong ngóng cậu ta trở về sau khi cậu tốt nghiệp, mặc dù cậu ta chỉ học trung cấp y tế ở tỉnh lỵ sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, nhưng cậu ta đã chịu ảnh hưởng, mưa dầm thấm lâu từ mẹ và dì của mình nên đã được hun đúc trở thành người có niềm yêu thích đặc biệt với y học, đặc biệt là y học đông y, cậu có một điểm ưu thế rất đặc biệt, là vô tình phát hiện trong cơ thể mình có mang điện, rồi thành công vận dụng nó vào xoa bóp đông y, đó được coi như là một nghiên cứu và phát triển khoa học đời sống của chàng trai ở cái tuổi 19.

Thật ra, sáng hôm qua Võ Tùng Quân đã trở về lại thành phố Viêm Đô, nhưng cậu ta không về nhà ngay mà lại leo lên núi Viêm Đô theo kế hoạch đã định từ trước đó, cậu muốn đi khảo sát sơ lược các loại thảo dược trên núi, sau đó ở trên núi "trải chiếu" nghỉ một đêm, sáng sớm thức dậy quan sát cảnh đẹp lúc mặt trời mọc, sau đó mới vui vẻ xuống núi.

Ở lưng chừng sườn núi có miếu Quan m nổi tiếng, hương khói luôn lượn lờ cùng những tấm vải nhiều màu sắc phất phới; tiếng chuông miếu vang xa hàng nghìn dặm. Khi Võ Tùng Quân đi ngang qua miếu Quan m, nơi đó đã là một biển người tấp nập…

Chính điện miếu Quan m được xây dựng ở phía Đông sân sau của miếu Quan m tại trên núi Viêm Đô, các thiền điện được xây dựng ở hai phía Bắc và Nam, tòa nhà Vi Đà được xây dựng ở giữa. Chính điện là điện Quan m, có mặt rộng ba gian, có một mái hiên cứng, mái hiên nối vào hành lang, là một tòa kiến trúc điển hình vào thời nhà Minh. Thiền điện phía Bắc và phía Nam lần lượt là điện Lão Quân và điện Tam Quang, mặt tiền rộng ba gian, những gian nhà làm bằng gạch với mái hiên đơn và mái cứng theo kiểu hiên trước, được nhà Thanh trùng tu.

Ở hậu viện, có ba hành lang phía trước ngôi miếu đều được làm từ gỗ. Thiền điện có lối điêu khắc gỗ thật độc đáo, nghệ thuật tinh xảo, bốn mươi hai trần của chính điện được sắp xếp có trật tự.

Hình ảnh được phác họa đẹp mắt, màu sắc cổ xưa và thanh lịch, hai bức tranh tường ở hai hành lang được bảo tồn nguyên vẹn. Miệng rồng của ngôi miếu phun nước, những cây bách cổ sừng sững chọc trời, đúng như tấm biển "Sơn Minh Thủy Tú" được treo ngang qua cổng núi đã mô tả phong cảnh đẹp của núi Thanh Tuyền.

Quan Thế m có nhiều hình thái, ở đây là hình tượng người phụ nữ dịu dàng, đoan trang, hay cười. Cũng có một số khác lại khác kiểu hình ảnh tiêu chuẩn này, hoặc chấp tay; hoặc cầm cành dương liễu và bình ngọc; hoặc bồng hai đứa nhỏ; hoặc dẫm lên hoa sen, v.v. Trong số các bức tượng của Phật Bà Quan m có rất nhiều là đồ thủ công mỹ nghệ tuyệt đẹp. Quan m là một vị Bồ tát có pháp lực vô biên, không gì là không làm được.

Nhưng mọi người tôn thờ bà ấy cũng không phải vì bà ấy có nhiều pháp lực ảo diệu, mà chủ yếu là ở việc bà có thể ban tặng con cái. Trong thời hiện đại, mọi người biết đến Phật Bà Quan m với chức năng ban con cái, còn đó những linh nghiệm về cứu khổ cứu nạn, nhưng nhiều nhất vẫn là cầu con trai. Cho nên, người dân thường đến miếu Bà Quan m để thắp hương hoặc thờ tượng Bà Quan m tại nhà, chủ yếu là để cầu con. Quan niệm về việc ban tặng bé trai của Bà Quan m đã phổ biến trong mọi hộ gia đình, đến nỗi phụ nữ và trẻ em đều biết.

Vào mùa hè hoa sen sẽ nở rộ, sen thơm khắp miếu, trên cành liễu nghe tiếng chim oanh, cũng có chim bồ câu bay lượn, không khí thanh bình, tốt lành làm cho lòng người lưu luyến không muốn trở về. Nó đủ hùng vĩ và nghiêm trang, khí thế phi phàm.

Trong số đó, bảo điện Viên Thông là chính điện Quan Thế m Bồ Tát, được xây dựng vào thời hoàng đế Khang Hi Ung Chính ở triều nhà Thanh, cao hơn sáu mét, rộng mười bốn mét, bên trong có đặt tượng Thánh Quan m cao hơn tám mét. Tư thế của Quan m là ngồi, hơi cúi đầu, tướng mạo nhân từ và mỉm cười, thể hiện tình yêu thương che chở đối với bé trai bảo bối trong lòng bà ấy. Đứa bé trai bảo bối trong lòng cũng hiểu ý nhìn Quan m, hai người nhìn thẳng vào nhau, hình thành thế gọi đáp, dường như đang tiến hành trao đổi tâm linh.

Bà ấy có dáng người đẫy đà, lồi lõm, da thịt nhẵn nhụi, trắng như tuyết, lông mày như trăng lưỡi liềm, đôi mắt sáng như sao, đôi môi đỏ mọng và khuôn mặt ửng đỏ. Hình tượng sống động như thật và cực kỳ có hồn. Nếu không phải cao thủ điêu khắc tượng, tuyệt khó có thể làm ra được kiệt tác có hồn như thế này! Tạo hình nhân vật chuẩn xác, tỷ lệ hài hòa, bàn tay và bàn chân đầy đặn, hoa văn trên quần áo mượt mà, tất cả điều đó đều nói lên trình độ nghệ thuật điêu khắc đỉnh cao.

Ở giữa điện Đông Thiên có một khoảng trống không có mái che, trong đó có một cây hòe cổ thụ, thời đó người ta gọi là Đường Hòe. Thân cây ước cần ba người ôm. Cây có cành quay về hướng Nam, trên đó có treo một chiếc chuông Đường, để chuông không bị rơi xuống, người ta đặc biệt làm thêm hai cột để chống đỡ cành. Tiếng chuông du dương êm tai, tựa như tiếng niệm phật, mà dân làng Ngũ Hoàng Khâu ở chung quanh đây đều có thể nghe thấy rõ ràng. Những người sống từ mười tuổi đến khi về già đều từng nghe qua.

Về sau, sợi dây thép treo chuông bị hoen gỉ do thời gian, không chịu được trọng lượng của chuông nên đã bị đứt, chuông khổng lồ rơi xuống đất, đâm vào trong đất sâu khoảng hơn một thước, mấy người đẩy, cũng không thể động được. Truyền thuyết về chiếc chuông này đã bị phá hủy khi sắt thép được sản xuất trong thế kỷ trước.

Cổng miếu là cổng chính dương, cao lớn và rộng rãi. Đứng ở cổng miếu mà ngắm nhìn thì có cảm giác như lên lầu nhìn ra xa. Hai bên trái và phải của cổng miếu có bốn cây hòe, đều là cây cổ thụ, không biết được trồng vào triều đại nào.

Cần đặc biệt lưu ý chính là miếu lớn Đường Hòe. Cây ở đây cao và tươi tốt, bóng râm có thể bao phủ toàn bộ ngôi miếu. Chỉ cần một cơn gió thổi qua, nó vang lên âm thanh xào xạc, thường làm cho mọi người kinh ngạc. Cây này có những cành cây dài luôn quay về hướng Nam, chỉ thẳng vào giếng thiêng và vịnh hoa sen trước miếu thờ. Một người không thể ôm xuể cành của nó. Cây có một lỗ tại trung điểm của thân cây. Truyền thuyết kể rằng có một con rắn khổng lồ ở trong lỗ cây đó.

Đôi khi, đuôi của nó quấn quanh thân cây, cơ thể lắc lư về phía Nam và đưa đầu xuống giếng để uống nước. Sau khi nó uống, nước trở nên đặc biệt mát lạnh, đặc biệt ngọt, sau đó, nếu người ta uống thì có thể chữa được mọi loại bệnh. Vì vậy, một số thiện nam tín nữ xung quanh miếu lớn, sau khi nghe câu chuyện liền ùn ùn kéo đến, cầu lấy nước thần, dâng hương thành kính với Bồ Tát để cầu phúc, cũng hướng về phía Đường Hòe (tức là hướng về động Linh Xà), bái lạy. Tương truyền rằng, Linh Xà là vệ thần của Quan m Bồ Tát, nó được Quan m điểm hóa nên rất thiện lành, còn phổ độ chúng sinh. Lịch sử của miếu Quan m (Đại Miếu) sáng ngời, truyền thuyết về miếu Quan m cũng có từ lâu đời.

Có một bức chân dung được treo ở sảnh trước của miếu, người ta gọi là "Phật cười lớn". Cho dù bạn thưởng thức bức chân dung từ hướng nào, các vị phật đều nhìn bạn cười. Trong thiền viện có rất nhiều thư họa, thư pháp, văn vật của các danh gia, bao gồm người lừng danh trong ngoài trong giới hội họa Lĩnh Nam đại sư Đồ Quan Sơn Nguyệt, có ba nhà thơ lớn của Lĩnh Nam danh xưng là Trần Cung Doãn, học giả nổi tiếng Chương Thái Viêm, tác phẩm của họ được treo ở điện, để du khách thưởng thức.